GIỚI THIỆU
Trong mắt của người dân trong nước và cộng đồng quốc tế, Việt Nam được ghi nhận là một quốc gia đã ngăn chặn hiệu quả sự bùng phát của dịch cúm do virus SARS-Cov2 gây ra (hay thường được biết đến với tên gọi là đại dịch COVID-19, hoặc COVID-19). Ngay từ tháng 1/2020, Chính phủ Việt Nam (Chính phủ) đã nhanh chóng triển khai các biện pháp chống dịch quan trọng, trong đó biện pháp quyết liệt nhất là cách ly toàn xã hội trong đợt dịch lây nhiễm trong cộng đồng đầu tiên vào tháng 4/2020, và cách ly xã hội tại một số tỉnh thành miền Trung trong đợt dịch thứ hai vào tháng 7-8/2020. Cho đến nay, Việt Nam chỉ còn ghi nhận một vài ca lây nhiễm trong cộng đồng. Đại dịch đã có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế; mặc dù GDP năm 2020 được Tổng cục Thống kê dự báo vẫn đạt mức tăng trưởng dương (2,91%), nhưng đây là mức tăng trưởng thấp nhất của Việt Nam trong một thập kỷ qua.
Nghiên cứu này đánh giá những cảm nhận và trải nghiệm của người dân Việt Nam về các biện pháp phòng chống dịch của các cấp chính quyền trung ương và địa phương, với giả định rằng các biện pháp chống dịch sẽ không thể đem lại kết quả hữu hiệu nếu không có sự ủng hộ và niềm tin của người dân vào Chính phủ và các cơ quan chức năng. Cụ thể, nghiên cứu này tìm hiểu tác động của COVID-19 đến thu nhập và việc làm của người dân, khả năng tiếp cận và hiệu quả của gói hỗ trợ kinh tế của Chính phủ, cũng như niềm tin của người dân vào các biện pháp chống dịch của Chính phủ. Nghiên cứu được thực hiện dựa vào số liệu của cuộc khảo sát xã hội qua điện thoại được thực hiện vào tháng 9/2020 đối với 1.335 người trả lời. được lựa chọn ngẫu nhiên từ những người tham gia khảo sát Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2019.
Nghiên cứu này đưa ra một số phát hiện quan trọng, trong đó có 3 điểm chính như dưới đây:
- Thứ nhất, người trả lời khảo sát đánh giá các biện pháp phòng chống COVID-19 của Chính phủ Việt Nam là kịp thời và hiệu quả. Điều này được thể hiện qua tỷ lệ người trả lời đồng thuận và ủng hộ cao đối với các chính sách và biện pháp kiểm soát đại dịch của Chính phủ. Trên 96% người trả lời đánh giá hiệu quả ứng phó với dịch của Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 là tốt và rất tốt, trong khi tỷ lệ này cũng đạt khoảng 94% khi đánh giá về hiệu quả của chính quyền cấp tỉnh. Khoảng 81% người trả lời coi đại dịch COVID-19 là một “vấn đề rất hệ trọng”, trong đó tất cả các nhóm dân cư đều cho thấy sự quan ngại đối với các diễn biến của đại dịch. Tuyệt đại đa số người trả lời (99%) cho biết có đeo khẩu trang khi đi ra ngoài và 93% người trả lời rửa tay hàng ngày trong giai đoạn đỉnh dịch. Khoảng 90% số người trả lời đánh giá biện pháp cách ly toàn xã hội vào tháng 4/2020 được áp dụng đúng thời điểm, và quan trọng hơn cả, 89% người trả lời đồng ý với quan điểm rằng Chính phủ cần ưu tiên cứu người khỏi COVID-19 dù phải hy sinh phát triển kinh tế.
- Thứ hai, mặc dù Chính phủ và người dân Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để kiểm soát dịch bệnh, đại dịch COVID-19 vẫn để lại những tác động tiêu cực đến kinh tế của các hộ gia đình cũng như nền kinh tế của cả nước nói chung. Kết quả khảo sát cho thấy khoảng 24% người trả lời bị mất việc làm vì đại dịch, trong đó ngành dịch vụ (ví dụ như công việc bán lẻ truyền thống, hộ gia đình kinh doanh dịch vụ, v.v.) là lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi đại dịch. Lao động phổ thông không có kĩ năng, lao động làm trong khu vực phi chính thức, người nghèo và cận nghèo là các nhóm bị ảnh hưởng nặng nề. Khoảng 65% người trả lời cho biết họ bị giảm thu nhập vì đại dịch, với mức giảm thu nhập trung bình khoảng 31%. Một phát hiện chính của nghiên cứu này là COVID-19 đã làm giảm đáng kể thu nhập của các hộ gia đình và người lao động thuộc nhóm hộ nghèo và lao động trong các lĩnh vực chịu tác động nhiều nhất do COVID-19. Phát hiện từ nghiên cứu cũng cho thấy nhiều hộ dân tộc thiểu số (DTTS) và hộ gia đình của người lao động phi chính thức chịu ảnh hưởng với các mức độ khác nhau. Vì vậy, đại dịch COVID-19 có thể làm trầm trọng hơn mức độ nghèo của các hộ nghèo kinh niên và hộ cận nghèo có nguồn thu nhập không ổn định.
- Thứ ba, kết quả khảo sát cho thấy đánh giá tích cực về gói hỗ trợ trị giá 62 nghìn tỷ đồng của Chính phủ cho các hộ nghèo và cận nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội, người có công với cách mạng, người lao động và các hộ kinh doanh cá thể bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Gói hỗ trợ này phần nào đã đến với nhóm người dễ tổn thương, như các nhóm phụ nữ, người DTTS, hộ nghèo và cận nghèo, thể hiện bằng việc nhóm hộ này có tỷ lệ được nhận hỗ trợ cao hơn. Trong số những người trả lời được nhận hỗ trợ (21% trong số 1.335 người trả lời), gần 90% người trả lời cho biết họ nhận được đủ số tiền hỗ trợ theo chính sách đề ra. Phần lớn người trả lời đồng ý rằng các khoản hỗ trợ được cung cấp kịp thời (83% số người trả lời) và thủ tục nhận khoản hỗ trợ đơn giản (85% số người trả lời). Tuy nhiên, kết quả khảo sát cũng cho thấy khoảng 13% người dân chưa bao giờ nghe đến gói hỗ trợ. Một số nhóm đối tượng như người DTTS, người nghèo, người sinh sống tại một số vùng nông thôn và có trình độ học vấn thấp chưa biết đến gói hỗ trợ này. Điều này gợi ý rằng công tác tuyên truyền cần được thực hiện tốt hơn để mọi người dân có được thông tin minh bạch và kịp thời, từ đó góp phần hạn chế tham nhũng và làm tăng niềm tin của người dân vào chính quyền.
Nghiên cứu này giúp đưa ra một số hàm ý chính sách. Trước hết, Chính phủ cần tiếp tục chú trọng nâng cao chất lượng quản trị và hành chính công nhằm củng cố niềm tin của người dân đối với các biện pháp ứng phó của các cấp chính quyền, đặc biệt khi có các tình huống khủng hoảng như dịch bệnh, thiên tai. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những người có trải nghiệm tốt hơn về chất lượng quản trị và hành chính công ở đại phương có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến COVID-19 và thực hiện các biện pháp phòng dịch tốt hơn. Nhóm này cũng thể hiện mức độ ủng hộ cao hơn đối với các biện pháp ứng phó với đại dịch của các cấp chính quyền.
Chính phủ cũng cần quan tâm hơn nữa đến các tác động kinh tế của đại dịch khi mà kết quả nghiên cứu cho thấy người trả lời bị giảm thu nhập do COVID-19 có xu hướng ít ủng hộ các chính sách phòng, chống dịch hơn. Việc hỗ trợ đối với những người bị ảnh hưởng bởi dịch là vô cùng cần thiết. Kết quả phân tích cho thấy những người được nhận tiền hỗ trợ từ gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng có xu hướng đồng thuận cao hơn với các biện pháp ứng phó của các cấp chính quyền.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy mức độ tiếp cận thông tin về đại dịch và gói hỗ trợ là khác nhau giữa các nhóm dân cư. Cụ thể, nhóm người có trình độ học vấn và thu nhập thấp hơn có tỷ lệ biết về gói hỗ trợ của chính phủ thấp hơn các nhóm khác. Do vậy, công tác tuyên truyền cần được thực hiện tốt hơn nữa đối với những người dễ bị hạn chế về mặt tiếp cận thông tin. Cuối cùng, trong bối cảnh hiện nay, người trả lời ủng hộ áp dụng biện pháp giãn cách xã hội tại xã/phường/thị trấn hoặc khu dân cư nơi có dịch hơn là thực hiện giãn cách trên toàn quốc do lo ngại các tác động tiêu cực của việc giãn cách xã hội lên vấn đề việc làm và thu nhập.
Thành công của Việt Nam trong việc kiểm soát đại dịch COVID-19 cho tới thời điểm báo cáo này được hoàn thành hàm ý những bài học quan trọng về giá trị của việc công khai, minh bạch về thông tin, trách nhiệm giải trình và gắn kết xã hội của chính quyền không chỉ cho Việt Nam mà còn cho nhiều quốc gia khác khi phải ứng phó với những khủng hoảng tương tự trong tương lai. Đối với Việt Nam, việc thực hiện tốt quản trị có sự tham gia của người dân trong ứng phó với đại dịch COVID-19 cần được áp dụng khi giải quyết những thách thức khác mà người dân hiện nay đặc biệt quan ngại (được thể hiện qua khảo sát PAPI trong bốn năm qua), là nghèo đói, ô nhiễm môi trường và tham nhũng.
Tải ấn phẩm